ĐBSCL đang phải đối mặt với rất nhiều thách thức về xói lở bờ biển, xâm nhập mặn, sụt lún đồng bằng và biến đổi khí hậu, nước biển dâng. Điều đó đặt ra cho các cơ quan quản lý từ Trung ương đến địa phương nhiệm vụ phải tìm kiếm những giải pháp tổng thể để cứu nguy cho đồng bằng quan trọng này.
Kịch bản bị nhấn chìm đang hiển hiện
Đầu tiên là tình trạng sạt lở bờ biển đang diễn ra nghiêm trọng dọc theo bờ biển ĐBSCL. Theo báo cáo của Viện Khoa học thủy lợi Miền Nam năm 2022, với chiều dài bờ biển khoảng 744 km, nhưng hiện nay ĐBSCL có khoảng 286 km đang trong tình trạng sạt lở nghiêm trọng.
Đê biển Cà Mau bị sạt lở hồi tháng 7 vừa qua |
ctv |
Xói lở bờ biển làm thu hẹp diện tích đất canh tác nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản và mất nhà cửa, tài sản và sinh kế của người dân, gây ảnh hưởng đến an ninh quốc phòng các tỉnh ĐBSCL. Một trong những nguyên nhân chính là việc xây dựng các đập trên thượng nguồn ở khu vực Trung Quốc, Lào, Thái Lan, Campuchia đã làm suy giảm đến 96% lượng phù sa đổ về sông Tiền và sông Hậu, theo đánh giá của nhóm nghiên cứu Giáo sư Matt Kondolf – Trường đại học California, Berkeley (Mỹ).
Chính điều này làm thiếu hụt trầm tích – nguồn phù sa quan trọng để bồi lắng, bổ sung cho bờ biển tạo nên cân bằng bùn cát. Sự mất cân bằng bùn cát kết hợp với các yếu tố thủy thạch động lực học bờ biển, sóng gió, nước dâng đã làm cho dải bờ biển bị sạt lở đáng kể.
Vấn đề thứ hai là tình trạng sụt lún đất nghiêm trọng. Trong khoảng 10 năm trở lại đây, tốc độ sụt lún trung bình là 0,96cm/năm, theo đánh giá của các tổ chức quốc tế và nhóm nghiên cứu của Đại học Utrecht, Hà Lan và đo đạc của Bộ Tài nguyên – Môi trường.
Bằng chứng là nền của toàn bộ ĐBSCL những năm trở lại đây đều bị sụt lún do khai thác nước ngầm quá mức. Cùng với đó là tình trạng biến đổi khí hậu và nước biển dâng cao khoảng 0,35 cm/năm khiến nơi này bị ngập lụt là điều không thể tránh khỏi. Do vậy, việc ĐBSCL ngày một bị nhấn chìm được dự đoán là một thực tế đang từng ngày biểu hiện.
Ngoài ra, theo đánh giá của Bộ Tài nguyên và Môi trường, nếu mực nước biển dâng lên 80cm thì có khoảng hơn 32% toàn bộ diện tích ĐBSCL sẽ bị nhấn chìm vĩnh viễn. Ước tính, nếu mực nước biển tăng 1m vào cuối thế kỷ 21 thì ĐBSCL sẽ mất gần 40% diện tích đất do nước biển dâng (theo kịch bản PB2009 của Bộ Tài nguyên và Môi trường).
Giáo sư Matt Kondolf nhận định, đến năm 2100, theo kịch bản trung bình sụt lún lên đến 1,8m và 90% diện tích đồng bằng bị ngập. Khi đó, riêng lĩnh vực sản xuất nông nghiệp bị thiệt hại 3,2 tỉ USD/năm. Đây là một trong những kịch bản tồi tệ uy hiếp đến an ninh lương thực cũng như sinh kế của 21 triệu dân toàn bộ vùng đồng bằng này trong tương lai.
Quản lý bờ biển bằng nhiều tuyến phòng vệ
ĐBSCL như chúng ta được biết là vựa lúa của Việt Nam – giúp Việt Nam trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới. Nếu như nơi đây có nguy cơ rủi ro tiềm ẩn từ vấn đề xâm nhập mặn, hạn hán, lũ lụt và suy giảm bùn cát cũng như xói lở bờ biển thì sự đe dọa đến nền an ninh lương thực, an ninh nguồn nước và sinh kế cho gần 21 triệu dân ở ĐBSCL. Đây là một trong những vấn đề rất nan giải.
Thay đổi cách tiếp cận quản lý tổng hợp bờ biển ở ĐBSCL với đa mục tiêu cần nhiều những giải pháp khác nhau về quản lý cũng như giải pháp công trình và phi công trình. Một trong những giải pháp đó là quản lý bờ biển đa tầng, thân thiện với môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu trong tương lai. Có nghĩa là phải quản lý bờ biển với nhiều tuyến phòng vệ khác nhau, từ ngoài biển bằng công trình giảm sóng xa bờ cho đến các công trình gần bờ như hàng rào tre, hệ thống rừng ngập mặn và tuyến phòng thủ cuối cùng là đê biển bằng đất bảo vệ nước biển xâm nhập vào khu vực nội đồng.
Nhiều đai rừng phòng hộ ven biển Cà Mau bị sóng đánh ngã |
gia bách |
Đối với công trình xa bờ hiện nay có rất nhiều giải pháp như: đê giảm sóng xa bờ kết cấu rỗng và có khả năng trao đổi môi trường cũng như bẫy bùn cát hạt mịn để khôi phục rừng ngập mặn bên trong. Tiếp theo còn có những giải pháp thân thiện với môi trường hơn: sử dụng các loại vật liệu địa phương như cừ tràm, thân cây dừa, cọc tre trở thành những đê rỗng để bẫy bùn cát, tái tạo lại rừng ngập mặn hiện nay đang suy thoái rất nghiêm trọng. Tuyến phòng thủ cuối cùng đó là đê biển bằng đất được che chắn bằng rừng ngập mặn, đảm bảo an toàn trong mùa lũ, đặc biệt là mùa nước dâng từ biển khi có bão.
Hệ thống rừng ngập mặn là một trong các hệ thống quan trọng bậc nhất, tăng cường đa dạng sinh học, bảo tồn thiên nhiên và mang lại giá trị kinh tế cao. Một trong các giải pháp mà chúng tôi nhấn mạnh về bảo vệ bờ biển đa tầng là kết hợp những giải pháp cứng và mềm để làm hài hòa được các lợi ích khác nhau. Nhằm mục đích đảm bảo đa dạng sinh học, bảo tồn hệ sinh thái, trao đổi môi trường cho các loài sinh vật biển cũng như thúc đẩy quá trình tái tạo cảnh quan môi trường nhằm phát triển du lịch sinh thái trong tương lai.
Những giải pháp cứng lâu nay trên thế giới đã thực hiện rất nhiều và những giải pháp này sẽ gây ra các tác động không mong muốn như ô nhiễm khu vực ven biển, phá vỡ cảnh quan biển. Về lâu dài, những công trình cứng sẽ gây ra những hệ lụy có hại đối với môi trường biển, cần có những giải pháp linh hoạt hơn thân thiện với môi trường để đạt được hiệu quả đa mục tiêu đối với quản lý tổng hợp ven biển vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Xây dựng cùng thiên nhiên hay các giải pháp dựa vào thiên nhiên là cách tiếp cận mới trên thế giới. Các giải pháp này đang được bắt đầu áp dụng tại các quốc gia như Mỹ, Hà Lan, Thái Lan, Indonesia… Mục tiêu là sẽ không làm cứng hóa hệ thống bờ biển mà sẽ làm cho hệ thống này trở nên mềm hóa, thích ứng linh hoạt trong tương lai, nhằm mục đích có thể di chuyển vị trí, di dời công trình khi đã hoàn thành nhiệm vụ và tái sử dụng cho khu vực khác.
Theo tinh thần Nghị quyết 120/NQ-CP của Chính phủ, Viện Khoa học thủy lợi Miền Nam cùng các chuyên gia, nhà khoa học trong nước cũng như quốc tế, đã có những tìm kiếm nghiên cứu các loại cấu kiện đảm bảo khả năng giảm sóng xa bờ, tái tạo khôi phục rừng ngập mặn bằng cách bẫy bùn cát mịn cho các bãi bồi phía sau đê giảm sóng. Đó là một trong những mục tiêu của cụm 6 đề tài cấp nhà nước mà Viện Khoa học thủy lợi Miền Nam vừa thực hiện.
Không thể không kể đến những thành công bước đầu là các công trình này đã áp dụng ở tỉnh Tiền Giang và tiếp tục mở rộng ở các tỉnh Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng trong tương lai gần. Đó là toàn bộ những giải pháp quản lý tổng hợp bờ biển và thích ứng với vấn đề biến đổi khí hậu trong tương lai, thách thức và cơ hội đối với vùng đồng bằng này.
ĐBSCL là một trong các khu vực được quan tâm không chỉ ở trong nước mà còn bởi tổ chức quốc tế, các nhà tài trợ trên thế giới về vấn đề đa dạng sinh học cũng như tính liên kết của khu vực này trong tương lai. Chính vì vậy, ĐBSCL có khả năng trở thành nơi có thể nghiên cứu các giải pháp thân thiện môi trường kết hợp với giải pháp khoa học công nghệ ở khu vực này. Đó cũng là cơ hội của các nhà khoa học trong lĩnh vực bờ biển trong tương lai.