Văn phòng SPS Việt Nam vừa phối hợp Sở NN-PTNT, Sở Công thương, cùng một số UBND huyện trên địa bàn tỉnh Sơn La tổ chức hội nghị phổ biến các quy định và thực thi cam kết SPS các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.
Với đối tượng là doanh nghiệp, HTX, người dân có nhu cầu xuất khẩu, TS. Đào Văn Cường, chuyên viên Văn phòng SPS Việt Nam chỉ rõ: SPS được các quốc gia thành viên tham gia Hiệp định xây dựng, công bố và bắt buộc áp dụng cho tất cả các quốc gia thành viên. Đó cũng có thể do một quốc gia công bố và bắt buộc áp dụng với các quốc gia xuất khẩu.
Theo ông Cường, mỗi quốc gia thành viên WTO chỉ áp dụng các biện pháp SPS được chứng minh đảm bảo khoa học, phù hợp với rủi ro có liên quan. Đồng thời, bên nhập khẩu sẽ đảm bảo các yêu cầu nhập khẩu công bằng, không phân biệt đối xử; đảm bảo minh bạch; các thủ tục nhập khẩu phải đảm bảo giảm thiểu tiêu cực tới thương mại.
Với riêng thị trường EU, Hiệp định EVFTA nêu: Hàng hóa xuất khẩu phải được phía EU cho phép nhập khẩu và được cấp các chứng nhận phù hợp. Ngoài ra, cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cần chứng nhận và bảo đảm hàng hóa đáp ứng các điều kiện, yêu cầu của EU.
Theo ông Cường, một số mặt hàng của Việt Nam đặc biệt hưởng lợi từ EVFTA. Ví dụ, EU cam kết thuế 0% dành cho hạn ngạch 80.000 tấn gạo/năm với gạo xay xát và gạo thơm. Riêng mặt hàng gạo tấm không còn hạn ngạch và sẽ xóa bỏ thuế trong 5 năm.
Một số sản phẩm khác được EU cấp hạn ngạch mỗi năm, gồm 500 tấn trứng gia cầm, 400 tấn tỏi, 5.000 tấn ngô, 30.000 tấn bột sắn, 11.500 tấn cá ngừ, 20.000 tấn đường…
Hưởng lợi từ thuế trong các FTA thế hệ mới, nhưng nông sản Việt cũng gặp thách thức với các hàng rào kỹ thuật. Văn phòng SPS Việt Nam cho biết, so với cùng kỳ năm 2021, số lượng cảnh báo từ các thành viên WTO với Việt Nam tăng 12%. Với thị trường EU, cảnh báo nhiều nhất là về dư lượng hóa chất (47,5%).
Làm rõ hơn về các yêu cầu xuất khẩu, TS. Nguyễn Đắc Bình Minh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu và phát triển vùng (Bộ Khoa học và Công nghệ) nhấn mạnh tầm quan trọng của việc truy xuất nguồn gốc sản phẩm.
Theo ông Minh, vấn đề truy xuất nguồn gốc được nhắc đến như một yêu cầu bắt buộc của nhiều FTA đa phương. Riêng thị trường EU, từ 1/1/2005, khối này đã đưa truy xuất nguồn gốc trở thành quy định bắt buộc đối với các nước thành viên của EU.
Với thị trường Trung Quốc, phía bạn yêu cầu từ năm 2019, 9 loại trái cây nhập khẩu chính ngạch từ Việt Nam phải được truy xuất nguồn gốc, gồm: vải thiều, nhãn, dưa hấu, thanh long, chôm chôm, chuối, mít, xoài, măng cụt.
Viện trưởng Minh cũng liệt kê một số công nghệ đang được áp dụng trong truy xuất nguồn gốc, và nhấn mạnh: “Hoạt động này giúp phát hiện, ngăn chặn các hành vi buôn bán hàng nhái, hàng giả… tạo thị trường minh bạch, đảm bảo quyền lợi cho các bên liên quan”.
Lắng nghe ý kiến của các đơn vị chuyên môn, bà Cầm Thị Phong, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Sơn La chia sẻ: “Công tác tuyên truyền về việc thực thi cam kết SPS là hết sức cần thiết. Thông qua những hội nghị như vậy, chúng ta mới biết chính xác mình đang đứng chỗ nào, và cần thay đổi ra sao, từ cách sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, cũng như việc ghi chép đảm bảo truy xuất nguồn gốc theo yêu cầu của nước nhập khẩu”.
Là vùng nông nghiệp trọng điểm của cả nước, với hơn 82.000 ha cây ăn quả, Sơn La đã chủ động thành lập một tổ công tác, kết nối trực tiếp với các cửa khẩu, nhằm kịp thời thông báo cho các hội nhóm, giúp HTX sớm nắm thông tin thị trường trước khi vận chuyển hàng hóa.
Sau thành công từ đề án phát triển cây ăn quả trên đất dốc giai đoạn 2015-2020, Sơn La tiếp tục chuyển dịch từ nền nông nghiệp sản lượng sang nâng cao chất lượng hàng hóa, chú trọng những sản phẩm đặc sản, có giá trị hàng hóa lớn, giúp lan tỏa những tiến bộ kỹ thuật nhiều hơn tới người dân.
Đồng thời, tỉnh cũng liên tục đôn đốc, kiểm tra, giám sát các mã số vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói để đảm bảo không bị gián đoạn xuất khẩu.
Là một trong những khách mời của hội nghị, ông Nguyễn Văn Phương, Phó Chủ tịch UBND huyện Sông Mã cho biết, huyện tiếp tục xác định thị trường xuất khẩu chính là Trung Quốc, bên cạnh việc đưa nông sản tiếp cận dần với EU.
“Chúng tôi đã làm việc với một số doanh nghiệp thu mua, nhằm đảm bảo yêu cầu kiểm dịch thực vật của thị trường nhập khẩu. 3 yếu tố huyện Sông Mã luôn tuyên truyền tới bà con, là mã số cơ sở đóng gói, mã số vùng trồng, và tem truy xuất nguồn gốc. Ngoài ra, là việc thực hiện nghiêm ngặt các tiêu chuẩn như VietGAP, cũng như tạo điều kiện để đưa nông sản đến các trạm Eurofins kiểm nghiệm mức dư lượng trước khi xuất sang EU”, ông Phương nói.
Sông Mã được xem là vựa nhãn của Sơn La, với diện tích khoảng 7.500 ha, sản lượng hàng năm khoảng 70.000 tấn quả tươi, trong đó 40% tiêu thụ dưới dạng chế biến. Nhờ tận dụng những chính sách của Trung ương, của tỉnh, Sông Mã đã đầu tư, mở rộng nhiều công nghệ như làm long nhãn bằng lò hơi nhiệt.
Huyện hiện có hơn 2.900 lò sấy các loại, công suất có thể đạt 2.000 tấn quả tươi/ngày. Đây là một trong những biện pháp giúp Sông Mã nâng cao giá trị quả nhãn, đồng thời tạo công ăn việc làm cho người dân.
Qua hội nghị, ông Vũ Đăng Kế, Giám đốc HTX nông nghiệp Mường Bú, huyện Mường La phấn khởi cho biết, đã tiếp thu được nhiều thông tin hữu ích từ các thị trường xuất khẩu. Ông bày tỏ mong muốn, các cơ quan quản lý tạo điều kiện hơn nữa trong việc kết nối tiêu thụ sản phẩm ra nước ngoài.
Ông Dương Văn Đạt, Giám đốc Công ty TNHH MTV Đạt Thủy, xã Cò Nòi, huyện Mai Sơn đề nghị có những chính sách phát triển, khuyến khích các cơ sở chế biến. Ông mong muốn được góp phần xây dựng thương hiệu nông sản Việt trên trường quốc tế, tránh tình trạng các nước khác nhập khẩu nông sản dưới dạng thô, chế biến sâu, rồi tái xuất đi nước thứ ba.